Tìm hiểu về tàu ngầm Kilo (phần 1)
* * *
Trong khi người Nga đẩy mạnh việc thương mại hóa lớp Kilo cho các đối tác truyền thống, thì ngay bên cạnh họ, người Đức cũng âm thầm phát triển một lớp tàu mà về sau cùng với Kilo trở thành hai dạng tàu ngầm bán chạy nhất trên thế giới, đó là Type 209.
* * *
Trong khi người Nga đẩy mạnh việc thương mại hóa lớp Kilo cho các đối tác truyền thống, thì ngay bên cạnh họ, người Đức cũng âm thầm phát triển một lớp tàu mà về sau cùng với Kilo trở thành hai dạng tàu ngầm bán chạy nhất trên thế giới, đó là Type 209.
Không giống như
Liên Xô, Đức nhằm
vào việc chế
tạo ra một
tàu ngầm thương
mại thuần
túy – bằng chứng
là Hải quân Đức
không hề biên chế
lớp tàu này – tính năng kỹ
thuật vừa
phải, tùy chọn
cung cấp thiết
kế cho bên mua để
cùng sản xuất.
Với mô hình bán kèm thiết
kế, nhiều
nước đă nắm
được một
phần công nghệ
đóng tàu ngầm, thậm
chí họ còn nhận
được chứng
chỉ của
Đức cho những
mẫu tàu tự
đóng theo thiết kế
có sẵn. Mặc
dù giá cả có vẻ
cao hơn chút ít so với
Kilo, Type 209 vẫn được
đặt mua nhiều
hơn. Tính đến
nay (2015) Đức và các quốc
gia khác đă “đồng sản
xuất” gần
70 chiếc Type 209 mang cờ
của 13 nước, trong khi Kilo có khoảng hơn
60 chiếc, mang cờ
8 nước kể
cả Nga. Về
mặt thương
mại mà nói, Type 209 thành công vượt
xa Kilo!
So trên các thông số kỹ
thuật cơ
bản, Type 209 nhìn chung tương
đồng với Kilo. Hai tàu cùng loại
động cơ
diesel-điện truyền
thống, về
vũ khí cùng mang được tên lửa
chống tàu, cùng tầm
hoạt động
400 dặm. Vũ khí của
Type 209 có 8 ống phóng lôi và 14 đạn
trên bệ, tổng
cộng cơ
số đạn
(cả ngư
lôi và tên lửa) lên tới
22 quả. Còn Kilo chỉ
có 6 đạn trong
ống phóng và 12 đạn
trên bệ, tổng
cộng 18 quả
các loại.
Tuy hạn chế
về số
lượng đạn
trên tàu, song các tên lửa của
Kilo có uy lực áp đảo
so với Type 209. Ngoài ngư
lôi, 209 chỉ có thể
mang tên lửa Harpoon chống
tàu chiến cổ
điển phiên bản
cận âm (0.8M), trong khi Kilo mang Klub-S với
nhiều phiên bản
khác nhau, loại thường
nhất trong số
đó tương đương
Harpoon về tốc
độ song độ
cao hành trình chỉ bằng
một phần
ba đến một
nửa so với
Harpoon. Các loại hiện
đại hơn
trong khả năng của
Kilo bao gồm tên lửa
chống tàu tăng tốc
siêu thanh và tên lửa đối
đất để
tấn công mục
tiêu trên bờ. Phiên bản
Kilo 636.3 của Hải
quân Nga thậm chí trang bị
cả tên lửa
đối không, nhằm
giúp phòng thủ tàu trước
các đe dọa của
không quân đối phương.
Một nguồn
thông tin chưa được
kiểm chứng
cho rằng Việt
nam đă mua tổng cộng
hơn 50 tên lửa
Klub-S bản tăng tốc
siêu thanh. Loại tên lửa
này mang đầu đạn nặng
khoảng 200kg, bay
ở tốc
độ cận
âm sau khi phóng khỏi tàu. Khi tới
cách mục tiêu chừng
20km, tên lửa tách bỏ
tầng thứ
nhất và khởi
động động
cơ đẩy
thứ hai. Khi đó, tốc
độ của
nó tăng đột ngột
lên mức siêu thanh (2.8-2.9M) khiến
cho thời gian đụng
độ mục
tiêu chỉ khoảng
15-20 giây. Kể cả
phát hiện kịp,
các hệ thống
phòng thủ cũng sẽ
gặp rất
nhiều khó khăn trong việc
xác định chính xác vị
trí và tốc độ
của tên lửa
để đánh chặn.
Ưu thế
của Klub-S so với
Harpoon, ngoài tốc độ
hơn gấp
3 lần còn phải
kể đến
độ cao hành trình. Trong khi Harpoon bay bằng
trên mặt biển
ở độ
cao 20-30m th́ì Klub-S chỉ bay cao 5-10m,tức
là thấp hơn
một nửa,
buộc radar đối
phương phải
tăng hết công suất,
“phơi mình ra” mới
có thể rà quét
nổi.
Về tốc
độ tiết
kiệm, Type 209 đi được
4 dặm mỗi
giờ so với
3 dặm của
Kilo. Để làm hết
hành trình 400 dặm đi ngầm,
tàu Đức cần
100h còn tàu Nga đi mất 133 giờ,
chậm hơn
gần một
ngày rưỡi. Tùy theo phiên bản
mà thủy thủ
đoàn tàu 209 dao động từ
31 đến 36 người,
ít hơn đáng kể
so với 52-55 người
của Kilo. Với
lượng thủy
thủ như
vậy, tàu 209 có thể
duy trì hành trình đến 50 ngày liên tục,
cao hơn 9% so với
45 ngày của tàu Kilo. Về
độ sâu, tàu 209 hoạt
động b́nh thường
ở mức
400m trong khi Kilo chỉ có 240m và tối
đa đến 300m.
Tốc độ
tối đa của
cả hai tàu xấp
xỉ như
nhau, 21-22 dặm. Với
tốc độ
này, tàu Kilo có thể đi được
khoảng 30 phút trên đoạn
đường chừng
10 dặm là hết
năng lượng. Bên Đức
không công bố con số
này, nên hiện không rõ tàu Đức
có thể di chuyển
bao xa ở tốc
độ tối
đa, song xét công suất động
cơ của
209 nhỏ hơn
một chút (5000hp so với
5500hp), lượng choán nước
của 209 nhỏ
hơn đáng kể
so với Kilo (1.8Kt so với
3Kt), thì có thể dự
đoán tàu Đức đi được
xa hơn, có thể
lên tới một
vài giờ (cỡ
20-50 dặm).
Đánh giá chung, Kilo mạnh hơn
209 về vũ khí nhưng
yếu hơn
về tính năng vận
hành. Nếu phải
đối đầu
một chọi
một, bất
lợi rõ ràng nghiêng về
phía tàu của Nga, họ
không thể rượt
đuổi tàu Đức
trong khi tàu Đức dễ
dàng làm điều ngược
lại. Bên cạnh
đó, Đức còn có thể
nâng cấp các tàu 209 vốn
đang chạy diesel-điện
sang chạy động
cơ AIP dùng pin nhiên liệu
(fuel-cell), bằng cách đó nâng cao đáng kể
hành trình đi ngầm. Một
số
ước tính cho rằng,
nếu chuyển
đổi sang fuel-cell, một
tàu Type 209 có thể hoạt
động ngầm
đến 84 ngày. Chỉ
với riêng tính năng này, 209 thừa
sức giám sát luồng
lạch của
Kilo, theo dấu chúng từ
khi ra khơi đến
khi về cảng.
Dưới màn đêm của
độ sâu vài trăm m nước,
việc ḍò tìm và theo dấu
chủ yếu
dựa vào thủy
âm, do tiếng
ồn của
các tàu ngầm gây ra bị
truyền đi rất
xa. Khi chơi trò “bịt
mắt bắt
dê”, các tàu Mỹ gặp
phải một
bất lợi:
chúng luôn phát ra một đỉnh
tiếng
ồn đặc
trưng
ở tần
số 60Hz.
Câu hỏi
là, tại sao các tàu của
Nga /Liên Xô và châu Âu không phát ra tiếng
ồn
ở tấn
số này?
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment