* Thông tin từ các website quốc phòng trên thế giới. Tổng hợp và giữ bản quyền bài viết: BlackViva.
Từ khi ra đời, tàu ngầm và tàu sân bay là hai nắm đấm chiến lược, và là mơ ước của mọi chỉ huy hải quân trên thế giới. Tàu sân bay là biểu tượng của sự răn đe, một căn cứquân sự di động cho phép phát động tấn công hoặc chi viện hỏa lực đến hầu như mọi địa điểm trên trái đất. Không bao giờ thực hiện nhiệm vụ đơn độc, mỗi tàu sân bay là thành viên trong một hạm đội bao gồm loại tàu chiến khác nhau, trong số đó có thể có cả tàu ngầm. Sở hữu một tàu sân bay có nghĩa là công khai ý định tổ chức tấn công hoặc phòng thủ xa bờ, tạo dựng niềm tin cho đồng minh, cũng như chứng tỏ khả năng phối hợp tác chiến hoặc phòng thủ nhiều bên: không quân như săn ngầm, trinh sát điện tử, đánh chặn từ xa, các tàu phòng thủ tầm gần như tuần dương, hộ vệ tên lửa, đánh chặn dưới mặt nước như tàu ngầm.
Trái với tàu sân bay, tàu ngầm là nắm đấm được che kín, chỉ để ra đòn vào phút quyết định. Có thể hoạt động trong nhóm với nhiệm vụ bảo vệ, song thường tác chiến độc lập, thực thi nhiệm vụ một cách bí mật. Ngay cả khi toàn bộ căn cứ và cơ sở trên đất liền đã bị đối phương tiêu diệt, mỗi tàu ngầm vẫn còn nguyên sức chiến đấu của mình. Như một sát thủ thầm lặng, khi đã nhận nhiệm vụ chiến đấu, ngay cả trung tâm chỉ huy cũng không thể biết tàu ngầm hiện đang ở vị trí nào. Trong cuộc chiến tổng lực, nếu chỉ để lọt một tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của đối phương, quốc gia tham chiến có thể phải trả giá vô cùng đắt, gấp từ hàng chục đến hàng trăm lần so với Hiroshima.
Do hiệp ước về cấm phổ biến vũ khí hạt nhân và quy định của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế, các nước chỉ có thể mua bán tàu ngầm thường – không mang lò phảnứng và không có tên lửa đầu đạn hạt nhân. Mặt khác VN đã cam kết không tự phát triển vũ khí hạt nhân, nên mơ ước trả đũa kinh hoàng như trên là không thể có. Điều tốt nhất có thể mua bằng tiền, chỉ là các tàu ngầm động cơ diesel-điện hoặc động cơ AIP (không sử dụng không khí ngoài), trang bị ngư lôi và tên lửa đầu đạn thường. Xét trong hoàn cảnh, Kilo là một trong số ít lựa chọn có thể có.
Theo các thông tin chính thức, Việt nam đã đặt mua 6 tàu Kilo và cho đến đầu 2015 đã có 4 chiếc được giao. Dù vậy, ít người hình dung ra được các tính năng chiến đấu của dòng tàu ngầm này, và chúng ta ở vị trí nào trên bản đồ quân sự về phương diện tàu ngầm. Tác giả mong rằng bài viết này có thể giải đáp một phần thắc mắc ấy.
Trước tiên, tàu ngầm Kilo là một loại tàu ngầm được thiết kế thương mại, bán rộng rãi trên thế giới. Điều đó có nghĩa là nhiều nước có thể mua được Kilo, và ưu thế sở hữu Kilo không phải là điều gì đáng kể. Kể cả các đơn hàng sắp giao, Nga sản xuất tổng cộng khoảng 70 chiếc, sử dụng trong Hải quân và bán cho 8 khách hàng trên thế giới. Độc giả lưu ý, mặc dù gọi chung là lớp Kilo, song thực ra chúng gồm có hai đề án khác nhau, 877 và 636. Đề án 877 ra đời trước và được NATO định danh là Kilo. Sau đó Nga công bố đề án 636, dựa trên sự tương đồng giữa hai mẫu này, NATO gọi 636 là Kilo cải tiến. Trong phạm vi bài viết, tác giả gọi chung 877 và 636 là lớp Kilo, trừ khi cần phân biệt rõ từng đề án.
Lùi một chút về bản đồ quân sự châu Âu thế kỷ 20. Do hoàn cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe, vào năm 1949, Mỹ và Tây Âu lập ra Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương gồm 12 nước, thường được biết đến với tên tắt là NATO. Liên minh này quy định mọi cuộc chiến chống lại một thành viên cũng là chống lại cả khối. Liên Xô ngay lập tức mởto mắt dè chừng, và vận động các nước Đông Âu thành lập một liên minh tương tự. Tuy vậy, phải tới giữa năm 1955, Hiệp ước Vác-sa-va mới được ký kết giữa Liên Xô và 8 nước khác, một tuần sau ngày Tây Đức gia nhập vào NATO. Đề án 636 ra đời nhằm chế tạo một lớp tàu ngầm thương mại cho các đồng minh trong khối này, vì thế trong tiếng Nga nó được gọi với tên Varshavyanka.
Mặt khác, do sự phát triển vượt bậc của các thiết bị thủy âm vào thập niên 70, các nhà khoa học và kỹ sư Liên Xô buộc phải cân nhắc phát triển một lớp tàu ngầm mới, nhằm vượt qua công nghệ dò tìm của đối phương, vì các lớp tàu hiện có đã không còn phù hợp. Chúng quá dễ bị phát hiện từ vết tiếng động, đồng thời thao tác nạp vũ khí chậm chạp, không đủ phản ứng trong các tình huống chiến đấu. Sau khi nghiên cứu, nhóm thiết kế đã lựa chọn cải tiến từ đề án 877, đưa ra tuyến hình mới cho vỏ ngoài của tàu với tỷ lệ dài/rộng khoảng hơn 7 lần, theo đó tốc độ đi nổi bị cắt giảm để bù vào tốc độ đi ngầm và hạ thấp tiếng ồn.
Bước sang năm 1991, hàng loạt sự kiện chính trị bất ngờ xảy ra: Liên bang Xô-viết tan rã, chiến tranh lạnh chấm dứt, và kéo theo nó là sự sụp đổ của Hiệp ước Vác-sa-va. Tháng 7 năm 1991, nó chính thức chấm dứt sự tồn tại. Đề án 636 – cho đến lúc đó còn chưa đóng một chiếc tàu nào – tự nhiên không còn lý do để tiếp tục. Thế giới chắc sẽkhông bao giờ biết đến sự tồn tại của nó, nếu như không có một cường quốc trỗi dậy mang trong mình tham vọng kiểm soát đại dương: Trung Quốc!
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment