* Tai nạn tàu ngầm K-429: khi mệnh lệnh bất chấp thực tế (phần 1)
* Tai nạn tàu ngầm K-429: khi mệnh lệnh bất chấp thực tế (phần 3 - hết)
Trong khi
thuyền trưởng và chỉ huy hạm đội còn đang bàn cãi về việc có cho K-429 tham gia
diễn tập hay không, thì các kỹ sư sửa chữa đã phải cấp tốc đưa tàu quay lại chế
độ đi biển. Hàng loạt các thao tác cần phải làm, cái nọ nối tiếp cái kia. Trong
lúc vội vã đó, họ quên mất vài chi tiết lặt vặt. Thứ nhất là đồng hồ đo sâu
chưa lắp xong, thứ hai là cửa thông gió cho tàu còn đang mở, thứ ba là phao
liên lạc – lẽ ra phải thả lỏng thì lại bị hàn chết lại (cho khỏi rơi mất!), và
cuối cùng là khoang cứu hộ khẩn cấp, cũng bị hàn chắc vào vỏ!
Tối muộn
ngày 23-6, theo lịch lẽ ra tàu phải có mặt ở khu vực diễn tập, nơi có độ sâu gần
2km. Ở đó, nó sẽ đóng vai trò mục tiêu để các tàu khác tập phóng ngư lôi vào.
Tuy vậy, Suvorov đã đưa tàu đến vũng Sarannaya, nơi chỉ sâu chừng 40m, để lặn
kiểm tra. Tin tưởng vào con tàu, ông cho bơm nước vào đầy khoang dằn chính. Khi
đèn báo đầy đã sáng, tàu đã sẵn sàng để lặn, ông phát lệnh – một mệnh lệnh
không thể đảo ngược: "Cho tàu lặn xuống độ sâu kính tiềm vọng!".
Bánh lái
và động cơ hoạt động, đưa con tàu chìm xuống. Song đồng hồ đo sâu vẫn báo họ
đang ở tư thế nổi. Bối rối vì điều này, thuyền trưởng ra lệnh bơm tiếp các dằn
phụ. Các sự kiện tiếp theo xảy ra nhanh đến chóng mặt, và chỉ có thể được khớp
lại dựa trên trí nhớ của các nhân chứng trên tàu.
- Báo động
ngập nước ở khoang 4. Với hai cửa thông gió đường kính 400mm mỗi cái để mở tự
do, nước tràn vào không cách gì cản được. Các thủy thủ trong đó đã ngay lập tức
khóa kín cửa ngăn với khoang 3 và khoang 5, dù biết rằng họ không còn lối thoát
nào khác. Tổng cộng 14 người hy sinh ngay trong khoảnh khắc đầu tiên của vụ tai
nạn.
- Hệ thống
bảo vệ lò phản ứng phát hiện ra bất thường, và nó tự kích hoạt để đóng lò một
cách an toàn. Tàu mất động cơ chính, và giờ đây phụ thuộc vào điện dự phòng của
ắc-quy.
- Tàu
tròng trành nhẹ. Dấu hiệu cho thấy đang nằm trên nền cát.
- Khoang
1, không nhận được lệnh từ đài chỉ huy, tự ý cho thổi khoang dằn chính để tìm
cách nổi lên. Các thủy thủ thiếu kinh nghiệm không biết cách đóng van khí, vì vậy
thay vì thổi dằn, họ thổi khí nén trực tiếp ra ngoài.
Sau khi
trấn tĩnh lại và kiểm soát tình hình, thuyền trưởng Suvorov hội ý với chỉ huy đội
tàu Gusev, lúc này đang có mặt trên K-429 để quan sát cuộc diễn tập. Về cơ cấu
tổ chức, một đội (division) là cấp nhỏ hơn hạm đội (fleet), và Gusev là cấp
trên trực tiếp của Suvorov. Sau khi kiểm tra tình trạng, họ kết luận tàu không
thể tự nổi lên mặt nước, và ưu tiên trước hết là cứu tính mạng thủy thủ đoàn. Kể
từ giờ phút này, Gusev nắm quyền chỉ huy tàu – để chia sẻ trách nhiệm với
Suvorov.
Như muốn
tạo thêm khó khăn, nước biển đã lọt vào hầm chứa ắc-quy ở khoang 1 và 3, dẫn đến
cháy nổ do hydro thoát ra từ phản ứng điện phân. Họ phải sơ tán toàn bộ người từ
khoang 3 vào khoang 2 để tránh bị ngạt. Gusev về sau kể lại:
"Các
bạn phải nhìn thấy ánh mắt hy vọng của các thủy thủ hướng vào tôi và Suvorov,
hoảng sợ trước tình huống xảy ra và khát khao được sống bằng mọi giá".
Sovorov
biết rằng, hạm đội không tìm kiếm tàu K-429 ở khu vực này. Họ định thả phao
liên lạc, nhưng không có kết quả. Họ định rời bỏ tàu bằng khoang thoát hiểm,
khoang không hoạt động. Vào lúc này, trời đã sáng. Cân nhắc mọi phương án có thể
và độ sâu thực tế của tàu, họ chọn hai lính tình nguyện chui ra ngoài theo ống
ngư lôi, liên lạc với bờ biển để gọi cứu hộ từ hạm đội.
Song những
người bắt gặp hai thợ lặn lóp ngóp từ dưới biển lên lại cho là người nhái của
nước ngoài. Họ tức khắc bị tóm, trói lại và bàn giao cho biên phòng, dù hết sức
thanh minh về nguồn gốc bộ đồ lặn của mình. Lính biên phòng, sau vài giờ thẩm vấn
liên tục, mới gọi điện cho hạm đội để hỏi: này, bên các anh, có cái tàu ngầm
nào mới mất tích không?
Chỉ đến
lúc đó, hạm đội mới biết về chiếc tàu xấu số và cử đội cứu hộ ra hiện trường. Họ
còn đang bận văng tục và chửi rủa om sòm ở vùng tập bắn ngư lôi, vì mục tiêu
không thèm hiện ra trong tầm ngắm.
No comments:
Post a Comment