Quần đảo Canary nằm ở ngoài khơi Morocco trên vùng biển Đại Tây Dương, là một khu tự trị thuộc Tây Ban Nha. Dân số cả thảy hơn 2 triệu người (năm 2010), phân bố trên 12 đảo, trong đó Tenerife là đảo có diện tích lớn nhất – hơn gấp 3 lần đảo Phú Quốc của Việt nam. Dân cư của riêng đảo này gần bằng số dân của tất cả các đảo khác gộp lại (gần 1 triệu người).
Hình
thành từ hoạt động phun trào núi lửa, phần lớn diện tích đảo là đồi núi, đỉnh
cao nhất lên tới 1900m. Sân bay Los Rodeos nằm về phía bắc, do ảnh hưởng của địa
hình nên thường hứng chịu các đợt sương mù tràn về khiến tầm nhìn giảm đột ngột.
Dù biết thế, vào lúc xảy ra câu chuyện này, người ta chưa trang bị hệ thống
radar mặt đất cho sân bay. Việc điều hành hoàn toàn dựa vào liên lạc radio với
phi công, và khi có sương mù thì kiểm soát viên không lưu không thể biết máy
bay đang ở vị trí nào.
Đây là ảnh
chụp sân bay Los Rodeos từ trên Google Maps. Như các bạn thấy, phía dưới là đường
băng (runway), phía trên là đường lăn (taxi way). Giữa chúng có 4 đường nối,
theo thứ tự từ trái sang phải là C1, C2, C3 và C4.
(Ảnh
Google Maps)
Sơ đồ sân
bay, đánh dấu lộ trình của hai chiếc máy bay và nơi xảy ra tai nạn.
(Ảnh
Wikipedia)
Dưới đây
là những gì xảy ra vào buổi chiều định mệnh đó.
13:15
Một quả
bom nhỏ phát nổ ở sân bay Las Palmas, đảo Grand Canary. Nhà chức trách cho đóng cửa sân bay tạm thời
để tìm kiếm quả bom thứ hai, mà nhóm khủng bố đe dọa cho nố tiếp. Các chuyến
bay đến Las Palmas được chỉ định hạ cánh tạm thời
xuống Los Rodeos, chờ đến khi Las
Palmas mở cửa trở lại thì quay lại.
Cơ trưởng
của Pan Am phân vân khi nghe tin này. Chuyến bay của ông, cất cánh từ Los Angeles 13 tiếng trước, sau một chặng nghỉ ngắn ở New York, đã bay xuyên Đại
Tây Dương. Phần đông hành khách rất mệt mỏi và muốn rời khỏi máy bay càng nhanh
càng tốt. Biết rằng mình còn dự trữ nhiên liệu, ông yêu cầu đài kiểm soát cho
bay chờ trên không. Yêu cầu bị từ chối. Không còn lựa chọn khác, họ phải đáp xuống
Los Rodeos, cách Las Palmas
khoảng 1h bay.
Lúc vào
hàng, chiếc KLM 747 xếp ngay trước chiếc của Pan Am. Cơ trưởng KLM, e ngại
không có đủ nhiên liệu để bay đến Las Palmas và quay về Hà Lan, quyết định cho
nạp thêm. Ông cũng cho phép hành khách xuống khỏi máy bay để nghỉ trong phòng
chờ. Cơ trưởng Pan Am trái lại, quyết định giữ hành khách trên máy bay.
15:00
Sân bay Las Palmas mở cửa trở lại.
Các máy bay bắt đầu cất cánh từ Los Rodeos để quay về. Chiếc KLM 747 vẫn chưa nạp
xong nhiên liệu và đang cản đường ra của chiếc Pan Am.
Như sau
này nhìn lại, tai nạn có thể đã không xảy ra nếu KLM không nạp thêm nhiên liệu.
Thứ nhất, hai máy bay sẽ cất cánh sớm hơn vài chục phút, vào lúc không có sương
mù. Thứ hai, chiếc KLM nhẹ hơn có thể lên thêm vài mét và tránh được vụ va chạm.
Thứ ba, kể cả khi có va chạm, đám cháy trên máy bay sẽ nhỏ hơn, và thiệt hại về
người có lẽ không cao đến thế.
16:55
KLM đón khách,
nạp xong nhiên liệu và ra tới đầu đường băng bên trái. Đài kiểm soát yêu cầu nó
đi tới cuối đường băng, quay đầu và sẵn sàng cất cánh. Theo sau nó vài trăm mét
là chiếc Pan Am, được yêu cầu rẽ vào đường nối C3 nhường đường cho KLM. Sương
mù bao trùm sân bay, tầm nhìn còn khoảng 100m, đài kiểm soát không nhìn thấy
máy bay và các máy bay không nhìn thấy nhau.
17:02
(Đài kiểm
soát) Chuyến bay KLM, các anh đi qua bao nhiêu đường nối rồi?
(Cơ phó
KLM) Tôi nghĩ chúng tôi vừa đi ngang qua đường nối số 4.
(Đài kiểm
soát) OK, đi đến cuối đường băng, quay đầu và báo cáo sẵn sàng.
17:05
(Đài kiểm soát) KLM các anh được phép bay tới chốt P (Papa Beacon), lên và duy
trì mức bay 90, rẽ phải sau khi cất cánh, hướng 0-4-0.
17:06 (Cơ
phó KLM) Nghe rõ, chúng tôi được phép bay tới chốt P, lên và duy trì mức 90, rẽ
phải sau cất cánh hướng 0-4-0, và bắt đầu cất (at take-off ??)
(Cơ trưởng
KLM) We gaan (nghĩa là “Chúng tôi đi” – bằng tiếng Hà Lan).
(Đài kiếm
soát) OK
Vấn đề bắt
đầu phát sinh. Chiếc KLM được phép bay tới chốt P theo chỉ dẫn, nhưng nó chưa
được phép cất cánh. Dù vậy, cơ trưởng đã tăng ga và động cơ bắt đầu gầm lên.
Máy ghi âm buồng lái cho thấy rõ điều này.
(Đài kiểm
soát) Chờ cất cánh, tôi sẽ gọi các anh.
(Cơ phó
Pan Am) Chúng tôi còn đang lăn phía sau.
Hai thông
điệp phát đi cùng lúc, và do hiện tượng can nhiễu, KLM chỉ nghe thấy tiếng rè
rè trên radio trong khoảng 4 giây, dù người ta tin rằng một phần của thông điệp
vẫn chuyển tới chiếc KLM.
Vào thời
đó, các sân bay dùng radio VHF cổ điển để liên lạc với các máy bay. Đây là sóng
radio mà khi phát lên, tất cả mọi người trên băng tần đều có thể nghe thấy
nhau. Mặt tốt của công nghệ này, là các phi công có thể hình dung ra diễn biến sự
việc xung quanh, chú ý tới các máy bay “trước” và “sau” mình, hiểu được việc họ
sắp sửa làm. Mặt xấu là khi có 2 người cùng nói, sóng bị can nhiễu, và trong hầu
hết các trường hợp, người ta chỉ nghe thấy tiếng ù ù phát ra.
17:06
(Đài kiểm
soát) Pan Am báo cáo khi tránh khỏi đường băng.
(Cơ phó
Pan Am) OK chúng tôi sẽ báo khi tránh khỏi đường băng.
Dù cơ trưởng
KLM nghe thấy đoạn hội thoại này, ông không có phản ứng gì, có lẽ cho rằng chiếc
Pan Am đã tránh khỏi đường băng. Sự thực là, chiếc Pan Am đã đi nhầm đường. Do
sương mù, họ không nhìn thấy đường C2. Ngay vào lúc này, họ đang đi ngang qua C3
mà vẫn nghĩ đó là C2. Vì thế, chiếc Pan Am tiếp tục lăn bánh, hướng về đường nối
C4.
Như trên
bản đồ đường băng và trong báo cáo điều tra sau này, người ta thấy chiếc Pan Am
không thể rẽ vào C3 được. Góc vào quá gấp, chỉ loại máy bay nhỏ có thể bẻ vòng cua
quặt ngược lại. Dù có không nhầm đường, cơ trưởng của Pan Am cũng sẽ yêu cầu
cho lên đường nối C4.
17:06
(Cơ phó
KLM) Is hij er niet af dan? {Nó chưa tránh à?}
(Cơ trưởng
KLM) Wat zeg je? {Anh nói gì?}
(Cơ phó KLM)
EstIs hij er niet af, die Pan American? {Nó chưa tránh à, chiếc Pan Am ấy?}
(Cơ trưởng
KLM – bằng giọng bực tức) Jawel. {Ồ vâng!}
Cơ trưởng
KLM là Van Zanten, một phi công 50 tuổi, dày dạn kinh nghiệm với 11,000 giờ
bay, đồng thời là trưởng bộ phận đào tạo của KLM. Cơ phó Klaas Meurs cũng không
phải tay mới, anh vốn là cơ trưởng của dòng máy bay DC-8, đang chuyển loại sang
bay Boeing 747. Mặt khác, anh có nhiều kinh nghiệm bay đến Las Palmas trong các chuyến trước của mình.
Meurs rõ
ràng cảm thấy có điều gì đó không ổn – anh chưa nghe thấy xác nhận tránh đường
của chiếc Pan Am. Tuy nhiên là cơ phó, anh đã không chống lại quyết định cất
cánh của cấp trên. Động cơ chiếc Boeing 747 gầm lên, đẩy khối sắt thép nặng 350
tấn lao tới với tốc độ 270km/h.
(Cơ trưởng
Pan Am – thét lên) Nó đấy … nhìn nó kìa, đồ chó, nó đến kìa …
(Cơ phó
Pan Am) Tránh ra! Tránh ra! Tránh ra!
(Cơ phó
KLM) Vee-one!
Lúc này
là khoảng 10 giây trước va chạm. Kíp lái Pan Am đã nhìn thấy chiếc KLM đang lao
sầm sập về phía mình. Rất nhanh, họ bẻ lái sang phía trái, cố lao vào đường nối
C4 đồng thời tăng tốc hết sức có thể.
Ngược lại,
kíp lái KLM vẫn chưa nhận thấy nguy hiểm trước mặt. Bằng chứng là Meurs hô lên
“V1”. Đây là tốc độ mà họ còn có thể hủy cất cánh. Vượt qua tốc độ này, chiếc
747 chỉ còn một lựa chọn duy nhất: tiếp tục tăng tốc dù bất cứ chuyện gì xảy
ra.
Bốn giây
sau đó, cơ trưởng KLM thốt lên “Oh shit!”
(Dựng lại từ dữ liệu chuyến bay. Nguồn: 1001crash.com)
* * *
Chiếc KLM
đã lên khỏi mặt đất, nhưng không đủ cao để lướt qua chiếc Pan Am. Hai máy bay
khổng lồ va vào nhau, xé toạc lẫn nhau. Bình nhiên liệu phát nổ, cánh và đuôi
gãy rời, chúng chìm vào biển lửa.
Trích từ
lời thuật của Robert Bragg, cơ phó chiếc Pan Am và là người sống sót sau vụ tai
nạn:
“Tôi nhắm chặt mắt lại và cầu nguyện,
lạy Chúa, hãy để nó lướt qua … Đó là một tiếng động nhỏ khi chúng va vào nhau …
Tôi mở mắt ra, và điều đầu tiên tôi thấy, toàn bộ cửa sổ của buồng lái đã vỡ
tan. Tôi nhìn sang bên phải, toàn bộ cánh phải đang cháy rừng rực.
Tôi nhìn sang bên trái, và nhận thấy
toàn bộ khoang trên cùng với 28 hành khách đã biến mất. Tôi có thể nhìn thấy đến
tận cuối máy bay. Như thể ai đó vừa lấy dao gọt đi lớp vỏ ngoài vậy.
Định với tay để giật công tắc dập lửa
cho động cơ, tôi phát hiện ra toàn bộ trần của buồng lái đã biến mất. Tôi hạ hết
các cần điều khiển, song cả 4 động cơ không dừng lại, vẫn chạy hết tốc lực như
khi trước va chạm.
Tôi lại bắt đầu hét lên: Tránh ra!
Tránh ra!”
Chiếc KLM
lướt thêm một khoảng ngắn nữa rồi đập xuống đất, trượt dài và bùng cháy. Không
ai trong số hành khách và phi hành đoàn của KLM thoát nạn. May mắn đến với 64
người sống sót của chiếc Pan Am, trên tổng số 396 người. Đám cháy lớn đến mức
làm tan hẳn sương mù trong bán kính 1km. Tổng cộng có 583 người tử nạn. Cho đến
ngày nay (2014), đó vẫn là số người tử vong lớn nhất trong một vụ tai nạn hàng
không.
* * *
Vì tai nạn
xảy ra trên lãnh thổ Tây Ban Nha, trách nhiệm điều tra đương nhiên thuộc về nước
chủ nhà. Sau khi lấy lại thông tin từ các hộp đen và tiến hành thẩm vấn những
người có liên quan, người ta cho rằng trách nhiệm cuối cùng thuộc về cơ trưởng
của KLM, người đã cho máy bay cất cánh khi chưa được phép. Một cuộc điều tra
khác của Hà Lan thì cho rằng, việc đài kiểm soát sử dụng các cụm từ không rõ
nghĩa đã gây ra hiểu nhầm cho kíp bay dẫn đến tai nạn.
Sau vụ
tai nạn này, người ta đưa ra hàng loạt các biện pháp an toàn cho ngành hàng
không và các hãng vận chuyển hành khách. Tiếng Anh được coi là ngôn ngữ làm việc
chung. Triển khai công nghệ VHF cải tiến, cho phép chặn sóng gây nhiễu để đảm bảo
chỉ một người có thể phát trong một thời điểm. Các cụm từ tiêu chuẩn được ghi
nhận, ví dụ “line up and wait” có nghĩa là xếp hàng và chờ, không được phép cất
cánh. Cụm từ “take-off” (cất cánh) dùng để chỉ hoạt động cất cánh thực sự, các
hoạt động khác phải dùng chữ “departure” (khởi hành). Khi nhận lệnh, phi công
buộc phải đọc lại các từ chính để đảm bảo họ hiểu đúng, không đáp lại bằng các
từ chung chung kiểu “OK” hay “Đã rõ”. Trình tự ra quyết định của các phi công
cũng được thay đổi, để đảm bảo đồng thuận giữa các thành viên hơn là áp đặt
theo thứ bậc.
Năm 1978, người ta lắp đặt radar mặt đất cho sân bay Los Rodeos.
(Hết)
Dựa trên
thông tin từ wikipedia.org, 1001crash.com, aviation-safety.net, pbs.org, awesomestories.com,
tenerife-information-centre.com và các website khác. Biên tập và hiệu đính:
oaht uv.
No comments:
Post a Comment