Từ sau
khi biên chế vào Hạm đội Biển Bắc, tàu tham gia vào các nhiệm vụ thử nghiệm và
tập huấn khác nhau. Đến tháng 6 năm 1985, K-278 bắt đầu trở thành tàu hoạt động
độc lập thường xuyên. Song phải tới giữa năm 1987, tàu mới được chính thức coi
là trải qua hết giai đoạn thử nghiệm với các bài tập phức tạp: phóng lôi từ độ
sâu 800m nước, lặn và đi ngầm ở độ sâu 1027m, nổi khẩn cấp bằng cách thổi
khoang dằn, cho thổi dằn bằng thuốc súng, thử nghiệm tấn công hạt nhân giả định
và chống tàu xâm nhập. Tháng Giêng năm 1989, tàu được đặt tên riêng
Komsomolets, vinh dự mà chỉ có một số ít tàu ngầm của Hải quân Liên xô nhận được.
Trong tiếng Nga, Komsomolets có nghĩa là Đoàn viên Thanh niên Cộng sản.
Ngày 28
tháng 2 năm 1989, K-278 Komsomolets xuất phát làm nhiệm vụ trực chiến lần thứ
ba, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Vanin. Kíp thủy thủ chính ở lại trên bờ,
thay thế họ là kíp dự bị của tàu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tàu lên đường trở
về. Vào ngày 7 tháng 4 năm 1989, họ đang trên biển Barents, cách đảo Bear
Island (Na-uy) khoảng 180 km về phía tây nam, hành trình với tốc độ 8 hải lý ở
độ sâu 350m. Nếu giữ nguyên tốc độ và hướng đi, khoảng 3 ngày nữa tàu sẽ về đến
cảng Murmansk
thuộc Liên Xô.
11:03 Tín
hiệu cảnh báo đầu tiên xuất hiện trên bảng điều khiển. Nhiệt độ trong khoang số
7 (khoang sát với chân vịt nhất) đã lên đến trên 70 độ và tiếp tục tăng. Liên lạc
với thủy thủ trực khoang không có trả lời.
Nodari Buchnikashvili
là được coi là nạn nhân đầu tiên của vụ tai nạn. Chỉ huy tàu cử một hạ sĩ quan
khác đến kiểm tra tình hình tại khoang. Ngạt thở trong đám khói độc, anh chỉ kịp
xác nhận hỏa hoạn rồi hy sinh ngay sau đó. Nguyên nhân thực sự đến giờ vẫn chưa
rõ, song người ta nghi ngờ các thiết bị điện chập mạch và phát lửa.
Tình huống
hỏa hoạn trên tàu ngầm, nhìn chung đã được các nhà thiết kế dự liệu. Do không
gian tàu rất chật hẹp, nhiều động cơ và thiết bị điện tử hoạt động chồng chéo nên
rủi ro cháy nổ luôn luôn chực chờ. Để đối phó với nguy cơ này, các tàu biển –
dù là tàu chiến hay tàu thường – đều phải có phương tiện dập lửa và cứu người
trong đám cháy. Với thiệt hại ở mức 2 sinh mạng, tạm thời có thể coi đây chỉ là
một sự cố nhỏ.
11:12 Báo
động khẩn cấp. Tàu bắt đầu nổi dần lên mặt biển. Nỗ lực dập lửa bằng hệ thống cứu
hỏa tự động trong khoang 7 không thành công.
Mặc dù được
trang bị hệ thống cứu hỏa trong từng khoang, song rõ ràng nó không có hiệu quả
đối với K-278. Đám cháy tiếp tục lan rộng, và giờ đây ngọn lửa đã làm hư hại hệ
thống điện động lực của tàu. Khi lên đến độ sâu 150m, thiết bị bảo vệ lò phản ứng
hạt nhân phát hiện ra sự cố đã tự động kích hoạt. Thiết bị này đảm bảo tàu
không bị rò rỉ hạt nhân khi xảy ra các sự cố phi hạt nhân, nó tự động thực hiện
quy trình dập lò khẩn cấp và khóa lại một cách an toàn.
An toàn
cho lò phản ứng, chẳng may lại không đồng nghĩa với an toàn cho tàu và thủy thủ
đoàn. Giờ đây không còn động cơ chính, tàu bị mất lực đẩy và nó có nguy cơ chìm
xuống đáy biển. Thuyền trưởng buộc phải ra lệnh cho tàu nổi lên khẩn cấp bằng
cách thổi khoang dằn.
Đó là một
quyết định hợp lý xét theo tiến trình của sự kiện, song như các cuộc điều tra về
sau cho thấy, chính quyết định này đã hạ gục con tàu. Vấn đề ở chỗ khi thổi
khoang dằn, đường ống dẫn khí nén ở khoang 7 bị vỡ. Ngọn lửa, được tiếp thêm lượng
lớn oxy từ khí nén, bùng phát đến mức hoàn toàn mất kiểm soát. Những gì lẽ ra
không cháy thì bây giờ cũng bén lửa. Nhiệt độ tăng cao, cùng với áp suất lớn từ
khí nén xả vào, khiến hỏa hoạn lan sang khoang 6 ở bên cạnh, là nơi chứa động
cơ. Hiển nhiên dầu máy trong khoang nhanh chóng bắt lửa, làm cho nhiệt độ đám
cháy lên tới trên 1000 độ C, bắt đầu ảnh hưởng đến kết cấu của tàu.
11:16 Tàu
nổi lên mặt nước. Hai khoang số 6 và 7 đã cháy, khói tràn ngập trong các khoang
2, 3 và 5. Thuyền trưởng cho dùng điện từ ắc quy dự trữ, đồng thời cho khởi động
máy phát diesel dự phòng. Khoảng 11:30, bắt đầu phát tín hiệu cấp cứu mã hóa.
Do kỷ luật
của Hải quân Liên xô và đảm bảo bí mật quân sự, các tàu chiến của họ không được
phép yêu cầu trợ giúp trên dải tần số cứu hộ hàng hải thế giới. Nếu họ dùng tần
số này, các tàu thuyền dân sự của Na-uy ở gần khu vực đó sẽ nhận được, và có thể
đến sớm hơn nhiều so với chiến dịch cứu hộ của Hải quân.
Trong lúc
đó, khí nóng từ đám cháy quay ngược trở lại các khoang dằn mạn phải. Nó làm
nóng không khí có sẵn trong đó khiến tàu bị nghiêng về mạn trái. Không biết
nguyên nhân làm tàu nghiêng, thủy thủ đoàn tìm cách thổi khoang dằn mạn trái để
lấy lại thăng bằng. Và cũng như lần trước, không khí nén mang thêm oxy vào đám
cháy, làm nó bùng lên. Lần này, hệ thống thông gió của tàu bị khói xâm nhập.
Các thủy thủ, từ trước đến giờ vẫn nhận được không khí sạch từ ống thông gió,
giờ đây bị ngạt và buộc phải chui ra ngoài. Những vị trí bắt buộc còn lại chuyển
sang dùng bình khí cá nhân – vốn chỉ thiết kế để một người thở trong khoảng 30
phút.
Hạ sĩ
quan Sliusarenko kể lại trong hồi ký:
"Còi báo động vang lên lúc tôi
đang nghỉ sau phiên trực. Chạy bổ về vị trí, chúng tôi nhận lệnh đi tìm kiếm những
người còn kẹt lại ở các khoang ... Chín người vào khoang số 5, ở đó họ bị bén lửa
... Chúng tôi lôi họ ra ngoài, rồi quay lại dập lửa ở khoang 5 ... Họ huấn luyện
chúng tôi, khi thấy hỏa hoạn phải đóng chặt cửa khoang, còn khi thấy khí nén lọt
vào thì phải mở khoang để thông khí. Bây giờ vừa có hỏa hoạn, vừa có khí nén
thì phải làm gì? Tôi không biết."
14:40 Máy
bay cứu hộ tới vị trí tai nạn. Các chỉ chị cho họ rất rõ ràng: thiết lập liên lạc
với tàu, quan sát và báo cáo tình hình.
Cho đến
lúc này, mặc dù chịu một số thiệt hại song về cơ bản thuyền trưởng vẫn cho là
kiểm soát được tàu. Ngoại trừ bốn người thiệt mạng, các thủy thủ còn lại chỉ bị
thương nhẹ do bỏng, một ít do ngạt khói. Máy bay phát hiện thấy khói vẫn tiếp tục
bốc lên từ trong tàu, còn ở đuôi tàu phía ngoài, nước đang sôi tạo thành nhiều
bọt khí. Lớp dán cao su bảo vệ tàu chống dò quét bằng sóng âm, do không chịu được
nhiệt độ cao, đang bong ra từng mảng lớn. Tàu đã sử dụng hết dự trữ khí nén, giờ
đây chỉ còn động cơ diesel dự phòng cung cấp điện cho thiết bị liên lạc.
Thực ra đến
thời điểm này, số phận con tàu đã được định đoạt, song bề ngoài không ai nhận
ra điều đó. Đám cháy tiếp tục, và nó đang gặm nhấm dần từng khu vực. Hệ thống
khoang dằn và bình khí nén bị hư hại đến mức nguy hiểm, nếu cố sử dụng chỉ làm
tàu chìm nhanh hơn. Thuyền trưởng không nắm được tình hình, vì các cơ cấu điều
khiển con tàu đã hỏng. Tin vào dự trữ nổi cực lớn, ông cho rằng nó không thể bị
chìm và vì thế, không cho thủy thủy chuẩn bị tình huống rời tàu.
16:35
Phát hiện tàu đang bắt đầu chìm từ phía lái. Thuyền trưởng ra lệnh chuẩn bị rời
tàu, đồng thời phát tín hiệu yêu cầu cho di tản 69 người. Đến 17:08 tàu chìm
hoàn toàn.
Toàn bộ
thủy thủ đoàn hầu như chưa chuẩn bị gì cho tình huống này. Tới lúc nó chìm hẳn,
người ta mới kịp hạ thủy hai xuồng cứu sinh, song một chiếc bị lật úp. Chiếc
còn lại chỉ đủ chỗ cho 20 người. Nhiều người còn trên boong bị rơi xuống nước,
một số may mắn hơn bám được vào mạn xuồng.
Những người
khác vẫn còn kẹt trong tàu. Chỉ 5 người kịp chui vào khoang cứu hộ, đó là thuyền
trưởng Vanin, hạ sĩ quan Sliusarenko và 3 người khác. Song do nổi lên quá nhanh
và nắp không đóng chặt, áp suất bên trong phá tung cửa khoang khi nó vừa chạm mặt
nước. Bốn người kia chết do khí ép, chỉ có một mình Sliusarenko, vì bị mắc vòi
hơi mặt nạ dưỡng khí nên thoát nạn một cách hết sức tình cờ. Anh trèo ra ngoài
và được đồng đội vớt lên, trong khi khoang cứu nạn lại chìm xuống cùng với con
tàu.
Nhiệt độ
nước biển lúc đó chỉ là +2 độ C, sóng cao gần 2m. Các thủy thủ còn phải ngâm
mình trong nước biển đến 18:20 mới có tàu đến cứu. Theo các nhà khoa học, người
ta chỉ có thể chịu được nhiệt độ đó trong khoảng 15-20 phút. Thế nhưng những
người còn sống sót đã ngâm trong nước biển tới 30-40 phút, những người nhiều nhất
– hơn một giờ đồng hồ. Nhiều thủy thủ đã chết vì lạnh – tàu cứu hộ chỉ vớt được
30 người còn sống, mà trong số đó 3 người về sau không qua khỏi.
Sĩ quan
Stepanov nhớ lại:
"Tôi thấy Zaitsev bám vào mạn
xuồng. Đến khi tay bị cóng, anh ấy cắn chặt vào áo khoác của ai đó ... Không biết
người ta đưa tôi lên boong như thế nào ... Họ ủ ấm chúng tôi, cho ăn súp. Nhưng
tay tôi run đến mức không thể xúc được. Y tá phải mang cho tôi một lon sữa đặc
có đường ..."
* * *
Hải quân
Liên Xô, với sự trợ giúp của các thiết bị không người lái, đã khảo sát khả năng
trục vớt con tàu. Họ chịu áp lực từ Na-uy, vốn lo ngại về khả năng rò rỉ hạt nhân
từ lò phản ứng và đầu đạn ngư lôi còn lại. Sau nhiều lần xem xét các phương án,
cuối cùng Hải quân đi đến quyết định không trục vớt con tàu này. Có thể kể đến
3 lý do chính. Thứ nhất, dù có vớt lên được cũng không thể làm rõ hoàn toàn
nguyên nhân vụ hỏa hoạn. Cả khoang 7 giờ là một mớ kim loại nóng chảy hỗn độn.
Thứ hai, chi phí trục vớt ước lượng từ 300 triệu đến 2 tỷ dollar Mỹ, quá đắt so
với khả năng tài chính của Nga thời hậu Xô-viết.
Thứ ba, vỏ
bền của tàu bị hư hại nặng do ngư lôi đầu đạn thường phát nổ dưới áp lực nước
trong lúc đang chìm, khiến nó có thể vỡ ra trong lúc trục vớt. Nếu điều đó xảy
ra, lò phản ứng sẽ tái khởi động, làm cho nguy cơ nhiễm xạ trở nên lớn hơn rất
nhiều so với hiện nay. Để ngăn chặn rò rỉ phóng xạ từ các đầu đạn, người ta phải
cho hàn kín khoang chứa ngư lôi và lò phản ứng, nhằm hạn chế sự ăn mòn của nước
biển. Ngoài ra, Hải quân cũng định kỳ lấy mẫu nước ở khu vực tàu chìm để xét
nghiệm các dấu hiệu của ô nhiễm hạt nhân.
Tổng cộng
có 27 thủy thủ được cứu sống, 42 người hy sinh. Nhiều người trong số họ quay lại
phục vụ Hải quân trên những con tàu khác cho tới lúc giải ngũ. Tất cả thủy thủ
đoàn – dù còn sống hay đã hy sinh – đều được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.
Hàng năm, vào ngày tàu đắm, họ vẫn tập trung tại quân cảng Leningrad để làm lễ tưởng niệm những đồng đội
đã yên nghỉ trong biển lạnh, cách xa đất liền và người thân, nơi chỉ có bóng tối
bao trùm.
Nếu có dịp,
các bạn có thể ghé thăm một kỷ vật được trục vớt lên – đồng hồ chính của tàu
K-278, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Leningrad. Nó vĩnh viễn dừng lại ở 5h43 chiều,
ngày mồng 7 tháng Tư năm 1989.
Chú thích: tổng hợp từ các trang
pravda.ru, narod.ru, wikipedia.org, radiovesti.ru, unikteh.ru và các website
khác. Biên tập và hiệu đính: oaht uv.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của mình (Kể từ năm 2015) sẽ là một chuyến tham quan nước Nga và ghé Saint Petersburg :-).
ReplyDeleteHuhu, mình chỉ mơ ước được xem kim tự tháp của người Ai Cập và người Maya, không biết mất mấy lần kế hoạch 5 năm đây.
Delete